I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Mt 10,37-42
(37) “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, th́ không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái ḿnh hơn Thầy, th́ không xứng với Thầy. (38) Ai không vác thập giá ḿnh mà theo Thầy, th́ không xứng với Thầy. (39) Ai giữ lấy mạng sống ḿnh, th́ sẽ mất. C̣n ai liều mất mạng sống ḿnh v́ Thầy, th́ sẽ t́m thấy được. (40) Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đă sai Thầy. (41) Ai đón tiếp một ngôn sứ, v́ người ấy là ngôn sứ, th́ sẽ được lănh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ: Ai đón tiếp một người công chính, v́ người ấy là người công chính, th́ sẽ được lănh phần thưởng dành cho bậc công chính. (42) Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lă mà thôi, v́ kẻ ấy là môn đệ của Thầy, th́ Thầy bảo thật anh em: Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
2. Ư CHÍNH: Người môn đệ phải đặt t́nh yêu Chúa Giê-su lên trên mọi tương quan t́nh cảm gia đ́nh ruột thịt. Những ai sẵn sàng đón nhận gian khổ thập giá để đi theo và cùng chết với Đức Giê-su th́ sẽ t́m lại được sự sống đời đời cho ḿnh sau này. Đức Giê-su tự đồng hóa với các thừa sai và hứa sau này những người sẵn sàng đón tiếp họ, sẽ được Thiên Chúa ban thưởng bội hậu trên trời.
3.CHÚ THÍCH:
- C 37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, th́ không xứng với Thầy...: Ở đây Đức Giê-su tỏ ư “ghen tương” giống như sự ghen yêu của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en trong thời Cựu Ước (x. Đnl 29,17-19 ; 32,16-21). Đức Giê-su không chấp nhận bất cứ t́nh yêu nào cạnh tranh với t́nh yêu phải được dành riêng cho Người. Kẻ nào muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su mà c̣n quá quyến luyến với gia đ́nh, th́ chẳng xứng đáng với t́nh yêu của Người. Kẻ nào không nh́n nhận sự tối thượng của Người cũng không thể làm môn đệ của Người được. Sở dĩ Người đ̣i hỏi trung thành tuyệt đối như vậy, v́ Người chính là Thiên Chúa làm người, đến để chịu chết đền tội thay cho loài người.
HỎI: Với đ̣i hỏi như thế, phải chăng đi theo Chúa là phải hoàn toàn từ bỏ mọi liên hệ gia đ́nh ruột thịt, có thể bị người đời kết tội là bất hiếu?
ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. V́ chính Đức Giê-su là một người con hiếu thảo: Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian ẩn dật tại Na-da-rét (x. Lc 2,51). Dù “giờ” chưa tới, nhưng Người sẵn sàng nghe lời cầu bầu của Đức Mẹ, để làm phép lạ đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,4.5-8). Trước khi tắt thở trên cây thập giá, Người trối Đức Mẹ làm Mẹ của môn đệ Gio-an, để ông đem ngài về nhà ḿnh mà phụng dưỡng thay cho Người (x. Ga 19,25-27). Người dạy người ta về sự thực hành cách cụ thể giới răn “Phải thảo kính cha mẹ”, trái với lời dạy lỗi bổn phận hiếu thảo của các luật sĩ (x. Mc 7,10-13). Nhưng đối với Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải được đặt sau Thánh Ư Chúa Cha (x. Lc 2,49). Mẹ và anh em của Người chính là những ai thi hành ư muốn của Thiên Chúa (x. Mc 3,33-35). Trong câu này, Đức Giê-su chỉ muốn nói rằng: khi cần phải chọn một trong hai t́nh yêu dành cho cha mẹ và dành cho Đức Giê-su, th́ môn đệ phải biết đặt t́nh yêu trung thành với Người trên t́nh yêu dành cho cha mẹ.
- C 38: + Ai không vác thập giá ḿnh mà theo Thầy, th́ không xứng với Thầy: Lúc đầu có lẽ các môn đệ đi theo Đức Giê-su do muốn được lợi lộc vật chất (x. Mt 19,27-30), được địa vị cao khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng Người lại không chiều theo ư họ, mà đ̣i họ phải đi con đường hẹp, leo dốc và đầy gai chông, ít người chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là đường “từ bỏ ḿnh, vác thập gia ḿnh hàng ngày mà theo chân Người” (x. Mt 16,24).
- C 39: + Ai giữ lấy mạng sống ḿnh, th́ sẽ mất...: Giữa hai sự sống tự nhiên và siêu nhiên, th́ môn đồ phải biết chọn sự sống siêu nhiên. Nếu họ chỉ lo t́m sự sống thân xác, đến nỗi từ chối Chúa để khỏi bị giết chết, th́ họ sẽ bị mất sự sống siêu nhiên ở đời sau. Ngược lại, nếu họ bằng ḷng chịu chết v́ đức tin, th́ sẽ được Chúa ban lại sự sống siêu nhiên sau này.
- C 40: + Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy...: Ở đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông thường về ngoại giao là: “Kẻ được sai đi đồng hóa với người đă sai ḿnh”. Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức Giê-su, cũng là đón tiếp chính Thiên Chúa là Đấng đă sai Người. Sự đón tiếp ở đây là phải sẵn sàng đón nhận Tin Mừng do các tông đồ thừa sai rao giảng.
- C 41: + Ai đón tiếp một ngôn sứ... một người công chính: Có người nghĩ rằng: Ngôn sứ và công chính đồng nghĩa với tông đồ, nên ai tiếp đón các tông đồ với danh nghĩa là ngôn sứ và người công chính, th́ sẽ được phần thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú giải hiện nay lại cho rằng: Thời Giáo hội sơ khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức vụ tông đồ, c̣n người công chính th́ không phải chức vụ, nhưng là người có lối sống công b́nh và ngay chính, được cộng đoàn kính trọng, như ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a người công chính (x. Mt 1,19), ông Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Th́ sẽ được lănh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ... cho bậc công chính: Đức Giêsu áp dụng nguyên tắc: “Người được sai đi đồng hóa với Đấng sai ḿnh”, để nói rằng: kẻ đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng sẽ được phần thưởng giống như phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người công chính sẽ được, là sự sống và được sự sống đời đời.
- C 42: + Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này...: Kẻ bé nhỏ đây ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là tông đồ thừa sai. + Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu: Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước Trời cho những ai thành tâm cộng tác vào sứ mệnh truyền giáo của các môn đệ, th́ cũng sẽ được thưởng giống như các ngài sẽ được ở đời sau.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ai không vác thập giá ḿnh mà theo Thầy, th́ không xứng với Thầy (Mt 10,38).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHẤP NHẬN THẬP GIÁ ĐỂ SỐNG VUI.
Có một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con một gia đ́nh quư tộc ở Ái Nhĩ Lan. Tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cô lại muốn sống đời thánh hiến cho Chúa. Khi tới tuổi trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai quư tộc đến dạm hỏi, và được cha mẹ cho phép, cô t́m đến một đan viện có lối sống nhiệm nhặt khắc khổ để xin được dâng ḿnh cho Chúa. Mẹ bề trên thấy cô vừa trẻ đẹp, lại vừa là con nhà quyền quư giàu có, nên chưa dám nhận ngay. Bà muốn thử thách ơn gọi của cô nên đă cố ư tŕnh bày những luật lệ khắt khe của đan viện về nhiệm vụ cầu nguyện và lao động nhiều giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái giữ im lặng như suy nghĩ. Một lát sau, bà bề trên hỏi tiếp: “Bây giờ con c̣n muốn dâng ḿnh cho Chúa nữa thôi?”. Cô đáp: “Thưa mẹ, con chỉ c̣n một thắc mắc này là: Không biết trong tu viện có nhiều cây thánh giá không?”. Mẹ bề trên trả lời: “Con đừng lo. Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có thánh giá cả”. Bấy giờ cô gái tươi nét mặt và nói: “Thế th́ thưa mẹ, con sẵn sàng xin vào tu viện, v́ con chắc sẽ không gặp ǵ khó khăn cả. Bởi v́ theo con nghĩ: Nếu mọi nơi mọi lúc con đều nh́n thấy thánh giá Chúa, đều thấy Người đang cùng chịu đau khổ với con, th́ con hy vọng có thể chịu đựng được mọi đau khổ”.
2) CHU TOÀN BỔN PHẬN ĐỐI VỚI GIA Đ̀NH TRƯỚC KHI ĐI THEO CHÚA:
Vào năm 1994 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc ḍng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đă phải nếm mùi đau khổ: Chỉ trong một tháng, người cha và chị cả trụ cột nuôi gia đ́nh lần lượt bị chết, khiến cho bà mẹ và bốn đứa con thơ dại hết sức lo lắng cho tương lai gia đ́nh.
Lúc đó em Mác-đa-la mới được 8 tuổi, nhưng đă tỏ ra khôn ngoan và chín chắn. Thấy mẹ lo buồn, em thường an ủi mẹ: “Mẹ đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đă giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải đợi tới lúc khôn lớn mà ngay từ lúc đó, v́ nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đ́nh, Mác-đa-la đă bỏ học để ngồi vào guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đă làm để kiếm tiền hằng ngày nuôi gia đ́nh.
Một hôm, t́nh cờ người bác họ là cha Bandenla đến chơi và khi biết hoàn cảnh của Mác-đa-la, cha đă hứa phụ giúp nhu cầu vật chất của gia đ́nh và giúp học phí sách vở cho Mác-đa-la đến trường học. Sau hơn mười năm chăm chỉ đèn sách, chị đă tốt nghiệp và trở thành một giáo viên giỏi dạy ở trường làng để phụ giúp gia đ́nh. Suốt 16 năm trời, chị đă giữ lời hứa với mẹ, chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm. Đến ngày sinh nhật thứ 30, Mác-đa-la đă dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn mà mẹ hằng mong ước. Chị âu yếm thưa với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con tặng mẹ, con chỉ xin mẹ cho phép con được tận hiến cuộc đời c̣n lại để theo ơn Chúa kêu gọi phụng sự Người”.
Quyết định của Mác-đa-la đă gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, v́ họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đă t́m được sức mạnh nơi t́nh yêu và lời Chúa phán: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy th́ không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi v́ tin vào lời Chúa đă hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em v́ nước Thiên Chúa mà lại chẳng lănh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đă thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến mà trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ và bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Cuối cùng chị đă được Hội Thánh tôn phong lên bậc chân phước để mọi người tôn kính và học tập noi gương.
3) AI KHÔNG ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐĂ TỪ CHỐI ĐÓN CHÍNH CHÚA GIÊ-SU:
Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận băo tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm băo tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị đă đến gơ cửa lần lượt hơn một chục căn nhà, nhưng chẳng có ai chịu ra mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục bên vệ đường bèn xuống xe đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị đă được cứu sống, nhưng tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân đă bị hoại tử v́ chịu giá lạnh trong một thời gian quá lâu.
Có điều đáng nói là các căn nhà chị đến gơ cửa đêm hôm ấy, mọi người đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng gơ cửa. Mọi người đều là các tín hữu sống tại vùng quê hiền ḥa, nhưng không một ai chịu ra mở cửa, v́ sợ có thể sẽ bị kẻ cướp vào nhà trấn lột!
4) AI LIỀU MẤT MẠNG SỐNG M̀NH V̀ THẦY TH̀ SẼ T̀M THẤY ĐƯỢC:
Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, SADHU và một người bạn cùng nhau đi du lịch qua một miền núi phía Bắc Ấn Độ. Th́nh ĺnh một cơn băo tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến họ phải rất vất vả để chống trả với cơn băo tuyết.
Bấy giờ họ thấy một người đàn ông bị lạnh cóng đang nằm thoi thóp bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại cứu giúp người gặp nạn, nhưng anh bạn kia lại không đồng ư v́ cho rằng nguyên việc làm sao để cứu mạng ḿnh lúc này cũng đă khó khăn vất vả lắm rồi, và anh ta cương quyết bỏ đi. Chạnh ḷng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân cho người sống dở chết dở ấy. Sau đó với sức lực c̣n lại, Sadhu cố gắng cơng anh ta trên lưng và tiếp tục đi qua vùng bị băo tuyết. Hơi ấm của hai thân thể ḥa quyện lấy nhau khiến người kia dần hồi sinh và cả hai d́u nhau đi tiếp. Đi khoảng mươi dặm, cả hai kinh ngạc khi nh́n thấy một xác chết v́ bị lạnh cóng đang nằm bên vệ đường. Họ càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra đó không ai khác hơn là anh bạn đă cùng đi với Sadhu trước đó.
Hành động yêu thương xả thân cứu người của Sadhu đă minh chứng cho lời Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: “Ai giữ lấy mạng sống ḿnh, th́ sẽ mất; c̣n ai liều mất mạng sống ḿnh v́ Thầy, th́ sẽ t́m thấy được”. Anh bạn của Sadhu do đă cố giữ mạng sống của ḿnh nên cuối cùng đă bị mất mạng, c̣n Sadhu do liều mất mạng v́ tha nhân nên đă được cứu. Đó là điều nghịch lư mà Đức Giêsu đă trải qua và dạy các tín hữu noi theo. Người đă sẵn ḷng chịu chết thập giá rồi sống lại vinh quang, để dạy chúng ta hăy đi con đường yêu thương: hy sinh mạng sống ḿnh v́ ḷng mến Chúa yêu người, và chắc ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.
5) CHIA SẺ GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO LÀ LÀM CHO CHÍNH CHÚA:
MÁC-TANH THÀNH TUA (Martin de Tour) là một mẫu gương về đức bác ái cụ thể. Bấy giờ Mác-tanh là người đầu tiên được Hội Thánh tôn kính như một vị thánh mà không do chịu tử v́ đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc cuộc bách hại đạo sắp chấm dứt. Trước đó chưa có người nào được các tín hữu tôn kính như một vị thánh giống như ngài.
Mác-tanh đă nêu cao chân lư: yêu thương tha nhân là yêu chính Chúa Giê-su. Trong lúc Mác-tanh đang học giáo lư dự ṭng th́ ngài đă ở trong quân đội. Vào một đêm đông giá rét, khi Mác-tanh đang ngồi trên lưng ngựa đi tuần tra th́ gặp một người ăn xin nghèo khổ đang đi trên đường. Ông ta bị rét run v́ quần áo ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách. Mác-tanh liền thương cảm cởi chiếc áo choàng bằng dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ kia. Sau đó, trong giấc ngủ, Mác-tanh đă nằm mơ thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác mảnh áo mà ông mới cắt cho người ăn xin. Mác-tanh nghe Người phán: “Hỡi Mác-tanh, tuy đang học giáo lư, mà con đă cho Ta chiếc áo này”.
3. SUY NIỆM:
1) ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÓN TIẾP CHÍNH ĐỨC GIÊSU.
“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đă sai Thầy”.
- NGƯỜI KHÁC LÀ AI?: GIĂNG PÔN SÁT (Jean Paul Sartres) một triết gia hiện sinh vô thần đă nói: “Hỏa ngục chính là người khác!”. Đây là một câu nói hận đời, trái ngược với tinh thần yêu thương của Đức Giê-su. V́ đối với các tín hữu chúng ta th́ người khác chính là hiện thân của Đức Giê-su như Người đă nói: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đă làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhưng người khác là ai? Họ không phải là một người trừu tượng, nhưng là những người sống bên chúng ta. Họ là La-da-rô nghèo đói đang ở cửa nhà chúng ta. Họ là những người yếu đuối, già cả neo đơn, là những người vô gia cư, vô nghề nghiệp. Có thể họ cũng là một người trong gia đ́nh ta, một người hàng xóm hay ở cùng một đường phố với chúng ta. Họ có thể là hỏa ngục hay là thiên đàng của ta tùy theo cái nh́n của ta đối với họ.
- L̉NG HIẾU KHÁCH: Trong một xóm đạo nọ, vào buổi sáng khi ánh mặt trời vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều được mở ra đón ánh nắng ban mai. Rồi từ đầu xóm, một gă hành khất đeo bị và tay chống gậy xuất hiện. Qua các cánh cửa, người ta phát hiện ra gă. Thế là từng nhà dọc theo xóm, vội vă đóng và chốt cửa lại, kéo rèm che cửa sổ. Bấy giờ gă hành khất đến từng nhà gơ cửa, nhưng không ai ra mở cửa. Cảm thấy nhục nhă buồn tủi, gă lặng lẽ đi ra khỏi xóm. Khi gă vừa khuất dạng, các rèm cửa lại được kéo lên, mọi cửa nhà lại được mở toang đón nhận nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm đều vui vẻ ra mặt v́ như vừa thoát khỏi sự quấy rầy của một kẻ không mời mà đến.
Hoạt cảnh trên đây vẫn thuờng xảy ra đó đây là do ḷng ích kỷ của con người. Người ta thường chỉ mở cửa nhà và cửa ḷng để đón mời một số người nào đó trong gia đ́nh ruột thịt, các người bạn thân quen, đồng nghiệp, hay những kẻ mà họ hy vọng sẽ đem lại cho ḿnh lợi lộc... và họ sẵn sàng khép cửa lại khi gặp một người lạ, nhất là những kẻ dáng vẻ nghèo nàn.
- CHÚNG TA PHẢI LÀM G̀ ĐỐI VỚI HỌ?: Đức Giê-su dạy chúng ta hăy ân cần tiếp đón tha nhân. Tùy theo thái độ của chúng ta mà họ sẽ thành niềm vui mang lại hạnh phúc hay trở nên nỗi bất hạnh của chúng ta: các chủ quán ở Bê-lem xưa đă từ chối đôi vợ chồng nhà quê nghèo khó là Giu-se và Ma-ri-a, nhưng họ lại không ngờ ḿnh đă từ chối đón nhận Đấng Cứu Thế trong đêm Người giáng sinh (x. Lc 2,7); Hai người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu đă mở rộng cửa nhà đón tiếp Đức Giê-su và đă được ơn cứu độ (x. Mt 9,10 ; Lc 19,5-10); Gia đ́nh Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su và đă được Người dạy cho biết điều cần thiết nhất (x. Lc 10,39-42). Hai môn đệ làng Em-mau nhờ mời vị khách bộ hành vào tạm trú trong nhà, mà các ông đă nhận ra Đức Giê-su phục sinh (x. Lc 24,29-31). Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang hiện thân trong những người đau khổ nghèo đói, những kẻ đứng ngoài cửa nhà chúng ta và gơ. Ai mở cửa đón rước Người, th́ Người sẽ vào trong nhà linh hồn của họ và ngồi vào bàn dùng bữa tối thân t́nh với họ.
XÉT M̀NH: Tôi thường có thái độ thế nào đối với những kẻ ḿnh không ưa hay những khách lạ không mời mà đến? Tại sao người ta đóng cửa nhà hay cửa ḷng với những người nghèo đói ăn xin? Khi các người làm tông đồ đến nhà, tôi có niềm nở đón tiếp và cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng của họ hay không?
2) T̀NH YÊU ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊSU.
- GƯƠNG VÁC THÁNH GIÁ:
Từ lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ BƠ-LÉT-SÍT (Arthur Blessit) đă khởi đầu một cuộc hành tŕnh đi bộ ṿng quanh thế giới. Trên vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô. Sau 26 năm vất vả, ông đă lập được một kỷ lục thế giới về đi bộ, khi vượt qua một quăng đường dài tới hơn 50 ngàn cây số, ngang qua nhiều quốc gia. Sau này ông đă thuật lại chuyến đi ấy như sau: “Tôi đă đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đă từng bị dă thú như voi, rắn, cá sấu tấn công. Tôi bị bắt giam 21 lần v́ bị nghi là làm gián điệp và có lần suưt bị dân da đỏ hành h́nh...” Động lực thúc đẩy ông làm được việc phi thường ấy là t́nh yêu mến Chúa Giê-su. Ông muốn mang thánh giá đến mọi nơi trên thế giới, như lệnh Người truyền: “Anh em hăy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).
- PHẢI VÁC THẬP GIÁ NÀO?
Đức Giê-su mời mọi người hăy vác thập giá ḿnh hằng ngày mà theo chân Người (x. Mt 16,24). Đường thập giá là con đường chính Đức Giê-su đă đi chịu chết. Đây là con đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao động vất vả ở Na-da-rét, là đường rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân độ thế từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, là đường lo buồn trong vườn Cây Dầu, bị xét xử bất công, chịu đánh đ̣n, đội măo gai, vác thập giá lên đồi Can-vê; là đường chịu đóng đinh và chết nhục nhă như một tên đại gian ác. Nhưng con đường đó lại là điều kiện để vào vinh quang phục sinh, như ba lần Người đă báo trước (x. Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19).
Các tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su mời gọi đi con đường thập giá của Người. Thập giá mà chúng ta vác không phải là cây gỗ thập giá của Đức Giê-su, nhưng là những gánh nặng việc bổn phận đối với gia đ́nh xă hội và Giáo hội, là đ̣i hỏi phải từ bỏ của cải vật chất, quyền hành, là những người mà chúng ta tuy không ưa, nhưng vẫn phải sống chung một nhà. Đức Giê-su đă làm gương cho chúng ta khi với tính tự nhiên, Người bị lo buồn sợ hăi trước Giờ Tử Nạn, nhưng Người đă can đảm chấp nhận vâng theo ư Chúa Cha (Mt 26,39). Chỉ v́ yêu mến Cha mà Người sẵn sàng từ bỏ ư riêng để chấp nhận khổ h́nh thập giá. Cũng vậy, chỉ khi nào ta thực sự yêu mến Chúa Giê-su th́ ta mới dám hy sinh quên ḿnh, dấn thân theo Chúa trên con đường thánh giá, và mới dám hiến mạng sống ḿnh v́ mến Chúa và yêu tha nhân.
- PHẢI YÊU CHÚA THẾ NÀO?
Đức Giê-su đ̣i những ai muốn theo làm môn đệ Người phải dành trọn t́nh yêu cho Người: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, th́ không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái ḿnh hơn Thầy, th́ không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Nếu Đức Giê-su không phải là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và nếu Người đă không chịu chết v́ yêu loài người trước, th́ chắc Người không dám đ̣i môn đệ phải hy sinh như vậy. Từ ngày Đức Giê-su về trời đến nay, có biết bao vị thừa sai tông đồ đă dám sống đến cùng t́nh yêu mà Đức Giê-su đ̣i hỏi ấy. Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng Lời Chúa, nhưng c̣n là thông truyền đức tin và t́nh yêu Chúa cho người khác ; Là giới thiệu Đức Giê-su cho tha nhân nhận biết, tôn thờ, yêu mến cậy trông vào Người. Muốn làm được điều này th́ chính chúng ta phải cảm nghiệm được t́nh yêu của Chúa nơi bản thân và sẵn sàng dâng cả cuộc đời để đáp lại t́nh yêu ấy. Ước ǵ chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết mọi người, mọi vật, chấp nhận bỏ đi cái tôi ích kỷ hẹp ḥi, để t́nh yêu Chúa ngày một lớn lên khi ta biết khiêm tốn phục vụ tha nhân.
4. THẢO LUẬN: 1) Ta cần từ bỏ những ǵ và phải vác thập giá nào để nên môn đệ của Chúa? 2) Theo kinh Cải Tội Bảy Mối, muốn bỏ một tật xấu như tự kiêu, bủn xỉn, mê đắm xác thịt, hay giận hờn, say xỉn, ghen ghét, lười biếng... Ta phải tập những nhân đức đối nghịch nào?
5. LỜI CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng đáng: biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết xả thân mà không cần một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết ḿnh đă làm theo thánh ư Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).
- LẠY CHÚA. Xin nhận lấy tất cả tâm tư t́nh cảm và ước muốn của con, tất cả những ǵ con có và những ǵ thuộc về con. Mọi sự ấy đều do Chúa đă ban cho con, th́ hôm nay con lại xin dâng chúng cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin hăy sử dụng theo ư Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa ban cho con ḷng yêu mến Chúa nồng nàn và sau này được Chúa ban ơn cứu độ. Được như vậy là con đă thỏa măn lắm rồi.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON