I. HỌC LỜI CHÚA
1A. TIN MỪNG : Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời c̣n tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, th́ thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ thương mến. bà nói: “Người ta đă đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đă tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nh́n thấy những băng vải c̣n ở đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đă tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đă thấy và đă tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cơi chết.
2. Ư CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đă từ cơi chết sống lại như Người đă báo trước.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Kư, th́ một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. + sáng sớm... lúc trời c̣n tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời c̣n tối” (x. Ga 20,1); C̣n Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đă từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đă ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đă can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đă chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai tṛ quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về ḿnh một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của ḿnh. + Người ta đă đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đă báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đă đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một ḿnh mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
- C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ ṇng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy ḷng nhiệt thành và ư thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đă tới mộ trước: Lư do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là v́ ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng v́ nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải c̣n ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết c̣n được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ư. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước ḿnh. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi.+ Si-mon Phê-rô ... vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn c̣n để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong t́nh trạng “chân tay c̣n quấn vải, và mặt c̣n phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đă tự lăn tảng đá che kín mộ ra th́ cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn c̣n để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đă thực sự sống lại. V́ không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả! + Ông đă thấy và đă tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đă giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đă từ cơi chết sống lại. + Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cơi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói th́ Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đă báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, th́ các ông đă nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đă thực sự sống lại từ cơi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào? 3) Bạn biết ǵ về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la? 4) Bà đă báo tin xác Thầy biến mất cho ai? Tại sao? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đă phục sinh hay không? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đă tin ǵ về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đă thấy và đă tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đă sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn c̣n mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đ̣ng đâm thâu. Một vị thiên thần đă lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đă phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhă do loài người dưới thế gây ra?” Người đáp: “Đúng vậy!” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đă chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế th́ Chúa đă làm ǵ để họ nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đă hiểu rơ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó th́ sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi th́ sao? Chúa có lập thêm một chương tŕnh cứu độ nào khác nữa thôi?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương tŕnh cứu độ nào khác nữa! Ta đă biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đă thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
2) ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY:
Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục sinh tại một trại tù như sau:
Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đă làm cho họ trở nên những con người độc ác. Họ cư xử với nhau bằng luật rừng « Mạnh được yếu thua “, trộm cắp, nghi ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai tù.
Thế rồi một điều khó tin đă xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đă tổ chức cho những bạn tù của ḿnh thành một nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi v́ Ngài cũng đă từng sống vất vả, đă từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đă từng bị môn đệ phản bội và đă từng bị bọn lính Rô-ma đánh đ̣n... Từ đó, tất cả những lời Đức Giê-su nói và những việc Ngài làm đều mang một ư nghĩa mới và trở nên sống động đối với các tù nhân. Họ không c̣n nghĩ ḿnh là nạn nhân của một cuộc chiến dă man. Họ không c̣n chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau bằng t́nh thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui tươi thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Nói cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay v́ nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay v́ trộm cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay v́ t́m cách chỉ điểm làm hại lẫn nhau.
3) T̀NH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm ḍ khám xét kỹ lưỡng. V́ theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử h́nh Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đă t́m được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm kư giả và nhiếp ảnh viên để tŕnh bày kết quả mỹ măn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đă trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đă khô đét, nhưng c̣n có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dơi bài thuyết tŕnh của nhà khảo cố. T́nh cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đă chết và đă được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm ǵ có chuyện Phục Sinh, bởi v́ xác ông ta vẫn c̣n nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc t́m được xác ông Giêsu:
- Không ai c̣n mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Ḿnh Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới ch́m đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đă thú nhận: “Tôi đă đánh lừa thế giới. Chính tôi đă làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới t́m kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đă Phục Sinh: T́nh yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đă mô tả cuộc hành tŕnh đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) L̉NG MẾN ĐĂ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI T̀M CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đă bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do ḷng mến đă làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), th́ giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ th́ ai đó đă đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đă để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đă phục sinh, mà bà chỉ mong sao t́m lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, th́ một lần nữa, do ḷng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đă trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người c̣n trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hăy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) L̉NG MẾN ĐĂ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến h́nh (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). T́nh yêu đối với Thầy đă thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dơi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai ṭa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của ḿnh và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do t́nh yêu thôi thúc mà Gio-an đă trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính t́nh yêu ấy đă thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước Tông đồ Phê-rô (x Ga 20,8).
3) L̉NG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đă theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đă t́nh nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông c̣n là một trong ba môn đệ được nh́n thấy Thầy biến h́nh trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đă đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đă được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông c̣n được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù c̣n nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách v́ dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đă bị Thầy trách kém ḷng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách khi quá tự tin vào ḿnh (x Mt 26,33-35). Nhất là đă hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đă được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có ḷng yêu mến Thầy hơn mọi người. Ḷng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ư kiến như: Thầy tṛ có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ư Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dơi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn c̣n, Phê-rô đă tin Thầy đă sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông c̣n được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng ḷng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông c̣n chứng tỏ ḷng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ L̉NG MẾN:
Chính ḷng mến Chúa đă làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đă được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính ḷng mến đă làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ư nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Ḷng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngă phạm tội, nhưng ông đă mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và c̣n được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, ḷng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những ǵ chúng ta yêu quư nhất hoặc những người thân yêu nhất không c̣n, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi t́m người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đă không giam hăm được sự sống: Sự sống đă trỗi dậy từ cơi chết; Ánh sáng đă bừng lên từ bóng tối tử thần;T́nh yêu đă chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su sự sống đă chiến thắng thần chết, t́nh yêu đă chiến thắng hận thù. C̣n bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa th́ “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai” hay không? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ư, bạn cần làm ǵ để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. V́ Chúa đă phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. V́ Chúa đă phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. V́ Chúa đă phục sinh, nên con đă hiểu được lư do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đă t́nh nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đă sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian... hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả v́ t́nh yêu Chúa và dám sống chết cho t́nh yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... v́ xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lănh. Chính lúc quên ḿnh là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON